Đinh
Bộ Lĩnh sinh ngày 15 tháng 2 năm Giáp Thân (924), tại làng Đại Hoàng. Nay còn dấu
vết nền nhà cũ nơi ông sinh là Gò Bồ Đề (còn dấu tích tại trạm xá cũ, thôn Văn
Hà, xã Gia Phương), cha là Đinh Công Trứ, mẹ là bà Đàm Thị.
Lúc
còn nhỏ Đinh Bộ Lĩnh chăn trâu cho chú là Đinh Dự. Đinh Bộ Lĩnh được bọn trẻ
chăn trâu cùng lứa tôn làm đầu mục (trẻ đứng đầu). Lĩnh thường bầy cho bọn trẻ
bẻ hoa lau làm cờ, chia quân đánh trận giả. Trận giả nhưng diễn ra như thật (nhờ
lão bộc trước đây dạy cho), thể hiện chí khí, sự tài giỏi của Đinh Bộ Lĩnh.
Sau
mỗi trận tập, bọn trẻ khoanh tay làm kiệu rước Đinh Bộ Lĩnh như nghi vệ Thiên Tử.
Trong lũ trẻ có mấy người cùng quê, cùng lứa tuổi, kết nghĩa anh em. Đó là:
Đinh Bộ Lĩnh, Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Lưu Cơ, Trịnh Tú, tôn Bộ Lĩnh làm anh cả.
Sau
này họ là nòng cốt của sứ quân Hoa Lư, là “Tứ trụ triều đình” khi Bộ Lĩnh lên
ngôi vua.
Sau
khi Ngô Vương Quyền mất, triều Ngô lục đục, bất lực. Một số quan, tướng nổi dậy
cát cứ xưng hùng xưng bá, đất nước loạn lạc. Sử cũ gọi loạn 12 sứ quân
Các sứ quân: Kiều Công Hãn (Phong Châu, Phú Thọ); Nguyễn
Khoan (Yên Lạc, Vĩnh Phúc); Ngô Nhật Khánh (Phú Thọ, Sơn Tây); Đỗ Cảnh Thạc
(Thanh Oai, Hà Tây); Ngô Xương Xí (Thiệu Sơn, Thanh Hóa); Lý Khuê (Thuận Thành,
Bắc Ninh); Nguyễn Thủ Tiệp (Tiên Sơn, Bắc Ninh); Lã Đường (Văn Giang, Hưng
Yên); Nguyễn Siêu (Thanh Trì, Hà Nội); Kiều Thuận (Cẩm Khê, Phú Thọ); Phạm Bạch
Hổ (Kim Động, Hưng Yên); Trần Lãm (Thái Bình)
Lúc
đó, lực lượng của Đinh Bộ Lĩnh tương đối mạnh. Do khí phách và tài thao lược,
nhân dân trong vùng theo về rất đông. Đinh Bộ Lĩnh nuôi ý chí dẹp loạn, thu
giang sơn về một mối, thiết lập triều đình. Biết lực lượng mình còn nhỏ, Bộ
Lĩnh đem lực lượng xin liên kết với sứ quân Trần Lãm (còn gọi là Trần Minh Công
ở Bố Hải Khẩu - Thái Bình ngày nay).
Trần
Lãm vốn là bạn đồng liêu, có nhiều ân nghĩa với cha Đinh Bộ Lĩnh, vui mừng thu
nhận, tin yêu lại gả con gái cho. Nhờ đó sứ quân Trần Lãm - Đinh Bộ Lĩnh ngày
càng hùng mạnh.
Khi
tuổi cao sức yếu, Trần Lãm trao toàn bộ quyền bính cho Đinh Bộ Lĩnh. Thấy Bố Hải
Khẩu không thuận lợi làm căn cứ dựng binh mở nghiệp lớn, Bộ Lĩnh đưa toàn bộ tướng
sỹ về xây dựng căn cứ ở Động Hoa Lư[1]. Tại đây, dựa vào thế núi
sông hiểm trở, Đinh Bộ Lĩnh tăng cường xây thành đắp luỹ, chiêu mộ hào kiệt,
quân sỹ, nổi tiếng hùng mạnh một phương.
Thấy lực lượng của
Đinh Bộ Lĩnh ngày càng lớn mạnh, Ngô Xương Văn và Ngô Xương Ngập đem quân đến
Hoa Lư (Động Thung Lau, xã Gia Hưng ngày nay) định tiêu diệt Đinh Bộ Lĩnh nhưng
bị đại bại phải rút quân về. Sau đó, Đinh Bộ Lĩnh khi dụ hàng, khi tấn công
tiêu diệt các sứ quân khác. Tiếng tăm Đinh Bộ Lĩnh càng lẫy lừng, chỉ trong một
năm, đánh dẹp yên các sứ quân, được xưng tụng là Vạn Thắng Vương.
Năm Mậu Thìn (968), Vạn Thắng
Vương lên ngôi Hoàng Đế, hiệu là Đại Thắng Minh Hoàng Đế, đặt quốc hiệu là Đại
Cồ Việt (nước Việt to lớn) đóng đô ở Hoa Lư[1], xây dựng cung điện,
đặt triều nghi.
Năm 970, ông đặt niên hiệu là
Thái Bình, cho đúc tiền đồng Thái Bình, lập năm Hoàng hậu, năm 971, vua Đinh định
thứ bậc, phẩm trật cho các quan văn võ và tăng đạo.
Năm 972, ông sai Nam Việt Vương
Đinh Liễn sang triều cống nhà Tống. Nhà Tống phong Đại Thắng Minh Hoàng Đế là
Giao Chỉ Quận vương, Đinh Liễn làm Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ An Nam đô hộ.
Đến tháng 2/974, quân đội của
vua Đinh có 10 đạo, Vua quy định áo mũ cho các quan văn võ, đặt các hình phạt để
xử những kẻ có tội.
Năm 977, vua lập Hạng Lang làm
Hoàng Thái Tử, Đinh Toàn làm Vệ Vương.
Đêm Trung thu năm Kỷ Mão (tức
9/9/979), ông và con trưởng Nam Việt Vương Đinh Liễn bị tên hầu cận Đỗ Thích
sát hại.
Đại Thắng
Minh Hoàng Đế mất, được triều thần tôn là Tiên Hoàng Đế, linh cữu táng ở Sơn
Lăng (núi Mã Yên), Trường Yên, Hoa Lư.
Vua Đinh ở ngôi 12 năm (968-979), thọ 56
tuổi. Đền thờ ông được dựng ở chân núi Mã Yên (Trường Yên, Hoa Lư) ngay trên nền
cung điện cũ.
Đánh
giá về Đinh Tiên Hoàng sử cũ viết “Vua tài năng, thông minh hơn người, dũng
lược nhất đời, quét sạch các hùng trưởng, nối lại đại thống của Triệu Vũ Đế.
Song không biết dự phòng, không giữ được trọn đời. Đáng tiếc thay ”.
“...
Đương lúc nước Việt ta không chủ, các hùng trưởng cát cứ, đánh một cái mà mười
hai sứ quân thần phục hết, rồi mở nước đóng đô, đổi xưng Hoàng Đế, đặt trăm
quan, dựng sáu quận, chế độ gần đủ. Chắc là ý trời vì nước Việt ta lại sinh ra
bậc Thánh Triết để tiếp nối chính thống của Triệu Vương chăng ”.
Đinh Tiên Hoàng là vị anh hùng dân tộc, mở
đầu và đặt nền thống nhất quốc gia, bước đầu xây dựng Nhà nước phong kiến Trung
ương tập quyền. Bức Đại Tự “Chính thống thủy” trong đền vua Đinh ở Trường Y ên
khẳng định, minh chứng cho chân lý đó. “Bậc Đế vương chính thống của nước Việt
ta khởi đầu từ đây. Các bậc vua Thánh Đế thần kế tiếp nhau chấn tác sau này
cũng đều to rộng theo bài học của triều Đinh ”. Đó là “Ý trời sinh ra
cho nước Việt ta bậc Thánh nhân sáng suốt để nối tiếp quốc thống”.